Không riêng gì Chí Phèo mà ở hầu hết truyện của Nam Cao, dường như mọi thành tố có mặt trong tác phẩm phải có mối liên hệ qua phú sâu sắc của chi tiết nghệ thuật này [5]. Ở đây, chúng tôi chỉ lưu ý thêm tác động mạnh mẽ của bát cháo hành đối với tâm trạng Chí Phèo - điều rất đáng quan tâm khi xem xét đặc điểm bút pháp 11 653 5 Bạn đang đọc: Tác phẩm văn học la một công trình sáng tạo nghệ thuật. Tác phẩm văn học hoàn toàn có thể sống sót dưới phương diện là ngôn bản truyền miệng hoặc hình thức văn bản được ghi lại bằng văn tự đơn cử ; hoàn toàn có thể được tạo thành bằng văn 1.Nêu ý nghĩa cái chết của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao. 2.Nêu đặc sắc nghệ thuật và nội dung tư tưởng mà nhân vật truyền + Nghệ thuật điển hình hóa nhân vật: có cả những nét riêng và nét chung. + Chú ý phân tích diễn biến tâm lí Ông đã được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học, Nghệ thuật (đợt 1, 1996) cho các tác phẩm: Nhật ký ở rừng, Đôi mắt (truyện ngắn), Sống mòn (tiểu thuyết), Truyện ngắn chọn lọc (xuất bản năm 1964), Chí Phèo (truyện ngắn), Nửa đêm (truyện ngắn). "Chí Phèo" là tác phẩm nổi tiếng, góp phần tạo dựng nên tên tuổi của Nam Cao, nhưng những nghiên cứu về tác phẩm này chỉ xoay quanh nội dung, nghệ thuật chứ không đi sâu nghiên cứu về mảng "không gian và thời gian nghệ thuật". cash. Phân tích tấn bi kịch của Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao. HƯỚNG DẪN CHI TIẾT I. MỞ BÀI Nam Cao là đại biểu ưu tú của dòng văn học hiện thực phê phán. Ông là cha đẻ của những tác phẩm tên tuổi “Chí Phèo”, “Lão Hạc”, “Đời thừa”… trong đó “Chí Phèo” là kiệt tác của Nam Cao và cũng là kiệt tác của văn học hiện thực phê phán. Thông qua hình tượng nhân vật Chí Phèo và con đường tha hóa của người nông dân trước Cách mạng, Nam Cao đã khắc họa thành công tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo mang đến cho bạn đọc bao niềm xúc động xót thương. Xem thêm Phân tích bài thơ Chiều tối Phân tích bài thơ Vội vàng II. THÂN BÀI kịch là gì ? Bi kịch là sự mâu thuẫn giữa hiện thực đời sống và khát vọng cá nhân. Hiện thực đời sống không đủ điều kiện để cá nhân thực hiện được khát vọng của mình dẫn đến cá nhân rơi vào hoàn cảnh bi đát có thể dẫn đến cái chết. Trong văn học Việt Nam ta đã từng bắt gặp bi kịch tình yêu của Thúy Kiều, bi kịch nghệ thuật của nhà văn Hộ, bi kịch của Vũ Như Tô… nhưng bi kịch lạ lùng nhất là bi kịch “bị cự tuyệt quyền làm người” của Chí Phèo. 2. Những biểu hiện của bi kịch Bi kịch ấy ngay từ đầu tác phẩm đã hiện lên qua tiếng chửi của Chí Phèo. Chí Phèo xuất hiện lần đầu tiên trước mắt người đọc không phải bằng xương bằng thịt mà là bằng tiếng chửi “hắn vừa đi vừa chửi”. Đó là hình ảnh vừa quen vừa lạ. Quen vì đó là tiếng chửi của những thằng say rượu. Lạ vì hắn chửi mà không có ai chửi nhau với hắn, không ai lấy làm điều. Chí “chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn, chửi đứa chết mẹ nào đã đẻ ra thân hắn”. Đó là một tiếng chửi vật vã, đau đớn của một thân phận con người ít nhiều nhận thức được bi kịch của chính mình. Chửi cũng là một cách để giao tiếp nhưng đớn đau thay đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo là một sự im lặng đến rợn người. Cay đắng hơn nữa, đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo lại là “tiếng chó cắn lao xao”. Chí đã bị đánh bật ra khỏi cái xã hội loài người. Xã hội mà dù sống trong nó Chí cũng không còn được xem là con người nữa. Qua tiếng chửi ấy, ta nhận ra bốn thái độ Thái độ của người chửi hằn học, hận thù; thái độ người nghe dửng dưng, khinh miệt; thái độ nhà văn xót xa, thương cảm; thái độ người đọc tò mò… Vậy Chí Phèo là ai? Bi kịch của một đứa con hoang bị bỏ rơi. Lật lại trang đời của Chí, người đọc không sao cầm được nước mắt trước một hoàn cảnh đáng thương. Ngay từ khi mới ra đời Chí đã bị bỏ rơi bên cạnh chiếc lò gạch cũ giữa một cánh đồng mùa đông sương trắng. Rồi Chí được dân làng nhặt về nuôi nấng. Tuổi thơ của anh sống trong bất hạnh, tủi cực “hết lang thang đi ở cho nhà người này lại đi ở cho nhà người khác, năm hai tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến”. Đây là quãng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời của Chí, bởi đó là quãng đời lương thiện, quãng đời tuổi trẻ nhiều mộng đẹp. Chí giàu lòng tự trọng, biết ghét những gì mà người ta cho là đáng khinh. Bị con mụ chủ bắt làm điều không chính đáng, Chí vừa làm vừa run, thấy nhục hơn là thích. Chí cũng như bao con người khác, anh cũng có ước mơ giản dị “có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm“. Đó chính là một ước mơ lương thiện. Nhưng đớn đau thay, cái xã hội bất lương ấy đã bóp chết cái ước mơ đó của Chí khi còn trứng nước. Một cơn ghen vu vơ của lão cáo già Bá Kiến đã đẩy anh vào cảnh tội tù. Chính nhà tù thực dân đã tiếp tay cho lão cáo già biến Chí Phèo từ một anh canh điền khỏe mạnh thành một kẻ lưu manh hóa, một kẻ tội đồ. Bi kịch tha hóa, lưu manh là con đường dẫn đến bị cự tuyệt quyền làm người. Nhà tù thực dân đã vằm nát bộ mặt người của Chí, phá hủy cả nhân tính đẹp đẽ. Sau bảy tám năm ra tù Chí không còn là anh canh điền hiền lành như đất nữa. Trước mắt người đọc là một tên lưu manh với một nhân hình gớm ghiếc “cái đầu thì trọc lóc, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết… cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế“. Cả cái nhân tính cũng bị xã hội tàn hại. Giờ đây là Chí Phèo say, Chí Phèo với những tội ác trời không dung thứ khi hắn bỗng dưng trở thành tay sai đắc lực cho lão cáo già Bá Kiến, quay ngược lại lợi ích của dân làng Vũ Đại, đối lập với nhân dân lao động cần lao. Từ một người nông dân hiền lành lương thiện Chí trở thành thằng lưu manh “con quỷ dữ của làng Vũ Đại“. Đáng buồn thay, mới ngày nào chính dân làng Vũ Đại nuôi Chí lớn lên trong vòng tay yêu thương vậy mà nay Chí đã quay lưng lại với chính cái nơi mà hắn được yêu thương và chở che. Từ đây Chí sống bằng rượu và máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện “Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện”. Hắn làm những việc ấy trong lúc say ” ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say… đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say để rồi say nữa say vô tận”. Chưa bao giờ hắn tỉnh để thấy mình tồn tại trên đời bởi vì “những cơn say của hắn tràn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang”. Nam Cao đã cho người đọc thấy một thực tế đau lòng về cuộc sống của nhân dân ta trước Cách mạng tháng Tám. Đó chính là cuộc sống bị bóp nghẹt ước mơ và khát vọng, người nông dân bần cùng hóa dẫn đến lưu manh hóa. Một cuộc sống tối tăm không ánh sáng. Nhà văn xót thương cho nhân vật, cay đắng và đau đớn cùng nhân vật. Đây chính là vẻ đẹp của tấm lòng nhân đạo và yêu thương của nhà văn dành cho những kiếp người như Chí Phèo. Gặp Thị Nở và khao khát hoàn lương. Nam Cao không trách giận Chí Phèo, ngòi bút của ông dành cho nhân vật vẫn nồng nàn yêu thương. Ông phát hiện trong chiều sâu của nhân vật là bản tính tốt đẹp, chỉ cần chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy mãnh liệt, tha thiết. Sự xuất hiện của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu đến “ma chê quỷ hờn”, kỳ diệu thay, lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi vào chốn tối tăm của tâm hồn Chí Phèo để thức tỉnh, gợi dậy bản tính người nơi Chí Phèo, thắp sáng một trái tim đã ngủ mê qua bao ngày tháng bị dập vùi, hắt hủi. Chính cuộc tình ngắn ngủi với Thị Nở trong một đêm trăng đã vô tình thắp lên ngọn lửa cuộc sống trong Chí. Có nhà phê bình đã cho rằng Thị Nở là một sứ giả mà Nam Cao phái đến để thức tỉnh Chí Phèo. Đó là sứ giả của tình yêu thương và tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn. Nhưng có lẽ cần phải nói thêm, Thị Nở không chỉ là vai trò sứ giả của lòng nhân đạo mà Thị còn là một “thiên sứ” của tình yêu. Vị thiên sứ này không có đôi cánh thiên thần nhưng có đôi tay đầy ắp tình người. Thiên sứ ấy như một ngọn gió, một ngọn lửa thổi vào tâm hồn của Chí. Nếu là gió, gió sẽ thổi bay lớp tro tàn đang vây quanh anh. Nếu là lửa, lửa sẽ đốt cháy lớp vỏ quỷ dữ để trả về cho anh một con người. Lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy. Chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe được tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải về… Những âm thanh ấy ngày nào chả có. Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Chao ôi là buồn! Âm thanh cuộc sống này khiến ta liên tưởng đến tiếng sáo của đêm tình mùa xuân trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Tiếng sáo đã lay động tiềm thức xa xôi của Mị, đánh thức tâm hồn Mị, thức dậy cả một quá khứ đẹp tươi. Đó chính là những chi tiết nghệ thuật đặc sắc làm nên chất thơ cho tác phẩm. Chính cuộc sống đã lay động trong tiềm thức xa xôi của Chí. Nó như cơn gió thổi tung đám tro tàn nguội lạnh, như từng giọt nước nhỏ vào tâm hồn sỏi đá, cằn khô làm tan đi giá băng tâm hồn. Hơn hết, nó làm sống dậy ước mơ một thời trai trẻ “có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm“. Rồi cũng trong cái phút giây tỉnh táo ấy, Chí Phèo đã cô đơn hơn bao giờ hết “Nhìn phía trước người thân chẳng có/ Ngó sau lưng quá khứ rợn ghê người”. Hắn như đã thấy “tuổi già của hắn, đói rét, ốm đau và cô độc – cái này còn sợ hơn đói rét và ốm đau”. Phải chăng Chí đang hối hận và ăn năn những việc mà mình đã làm? Chẳng biết có phải hay không mà Chí thấy lòng buồn man mác. Và nếu như Thị Nở không qua, chắc là hắn đã khóc được mất. Và rồi chính bàn tay ân cần của Thị Nở cùng với tình yêu của thị đã khơi dậy trong Chí phần người. Bát cháo hành chính là liều thuốc giải độc góp phần thức tỉnh phần người trong con quỷ dữ. Cháo hành đã tẩy ố đi men rượu, gột rửa những tội lỗi con người. Cháo hành có hương vị đặc biệt quá, những kẻ vô nhân tính như cha con nhà Bá Kiến làm sao mà biết được. Đó là hương vị của tình người, hương vị của tình yêu. Khi mà cả làng Vũ Đại không chấp nhận Chí là con người thì Thị Nở đã giang rộng vòng tay để đón lấy anh. Và bát cháo hành kia vô hình dung đã sưởi ấm cho trái tim nguội lạnh và mở đầu cho một mối thiên duyên. Nhìn bát cháo bốc khói mà lòng Chí Phèo xao xuyến bâng khuâng. Hắn ăn cháo hành và lấy làm mãn nguyện vì vị ngon của nó. Chí Phèo quen sống với một kiểu định nghĩa Muốn có cái ăn hắn phải kêu làng, phải rạch mặt ăn vạ, hắn phải thực sự hóa thân vào con quỷ dữ… Mỗi miếng ăn hàng ngày của Chí đều có máu và nước mắt của những người dân lương thiện làng Vũ Đại. Nhưng hôm nay cái triết lý sống ấy của Chí dường như đã thay đổi, những gì hắn đã từng có giờ phản bội lại hắn trong hương cháo hành của người đàn bà xấu như ma chê quỷ hờn kia. Hắn hiểu rằng người ta sống với nhau không chỉ bằng tội ác mà còn bằng cả tình thương yêu nữa. Mắt hắn lần đầu tiên ươn ướt. Hơi cháo hành phảng phất phục sinh phần người trong Chí… Hắn có thể sống với người ta bằng tình yêu, hắn nhen nhóm một mơ ước về cuộc sống bình dị… Hương cháo là hương cuộc đời, hương tình yêu mà từ trước đến giờ chưa ai cho Chí cả… Bát cháo hành giản dị nhưng bao nhân tính ẩn chứa, nó giữ chân Chí Phèo đứng lại ở bờ của phần người… Nhìn Thị hắn như muốn khóc, hắn cảm động và ngay trong chốc lát “Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với thị như làm nũng với mẹ…”. Đó là giây phút mà hắn người nhất. Đã hai lần chính Thị Nở đã phải thốt lên “Ôi sao mà hắn hiền!” rồi “Những lúc tỉnh táo hắn cười nghe thật hiền”. Cảm giác được yêu thương và chở che đã làm Chí trỗi dậy một tình yêu cuộc sống. Phần quỷ tạm thời rũ bỏ. Đó là giây phút Chí “thèm lương thiện và khát khao làm hòa với mọi người”. Rồi đến khát vọng hạnh phúc với Thị Nở “Giá cứ như thế này mãi thì thích nhỉ?… Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”. Ôi! Phải là lời của Chí Phèo đó không? Nghe sao mà hiền lành, có chút gì ngờ nghệch, hồn nhiên mà lại rất đỗi chân thành. Lời cầu hôn không tình tứ như bao kẻ khác nhưng lại khiến cho trái tim chúng ta nghẹn ngào thương cảm. Từ một con quỉ dữ, nhờ Thị Nở, đúng hơn nhờ tình thương của Thị Nở, Chí thực sự được trở lại làm người, với tất cả những năng lực vốn có. Một chút tình thương, dù là tình thương của một con người dở hơi, bệnh hoạn, thô kệch, xấu xí,… cũng đủ để làm sống dậy cả một bản tính người nơi Chí Phèo. Thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết nhường nào! Đỉnh điểm của bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Nhưng, bi kịch và đau đớn thay, rốt cuộc thì ngay Thị Nở cũng không thể gắn bó với Chí Phèo. Lời nói của bà cô Thị Nở như một gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt Chí Phèo làm tắt ngúm ngọn lửa lòng vừa được nhen lên trong Chí. “Ai lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha không mẹ như cái thằng Chí Phèo” đã trở thành định kiến khắc nghiệt lấp mất lối về của Chí. Cánh cửa cuộc đời vừa hé mở thì cũng ngay lập tức đóng sầm lại trước mắt của anh. Đó chính là bi kịch của một con người chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc sống lương thiện. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Và thật là khắc nghiệt, khi bản tính người nơi Chí Phèo trỗi dậy, cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Cánh cửa trở về với xã hội lương thiện, xã hội loài người vừa mở ra thì cũng là lúc đóng sầm lại ngay trước mắt Chí Phèo. Thị Nở như tia sáng loé lên trong cuộc đời đen tối của Chí Phèo vừa đủ để soi lên một niềm cảm thông cũng là lúc nó tắt ngấm giữa đêm đen cuộc đời Chí. Nói xa hơn, cái xã hội thực dân nửa phong kiến đó đã cướp đi của Chí quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại. Nó đã tiêu hủy và đã bẻ gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc đời. Chí Phèo tìm đến rượu nhưng rượu không phải bao giờ cũng làm cho người ta say. Một khi rượu không còn đủ sức để làm lu mờ lí trí con người thì nó sẽ quay ngược trở lại thức tỉnh lý trí ấy. Càng uống Chí càng tỉnh, càng tỉnh càng nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Chí đau đớn khi nghe “thoang thoảng mùi cháo hành” rồi Chí ôm mặt khóc rưng rức. Phẫn uất, Chí xách dao đi, định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm chết con “khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của Chí dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến. Hơn ai hết lúc này Chí hiểu ra rằng kẻ đã làm cho mình phải mang lốt quỷ, kẻ đã làm mình ra nông nỗi khốn cùng này chính là Bá Kiến. Anh càng thấm thía tội ác của kẻ đã cướp đi quyền làm người, cướp đi cả nhân hình và nhân tính của mình. Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một nô lệ thức tỉnh, đòi quyền làm người – Tao muốn làm người lương thiện! – Ai cho tao lương thiện! Đó là những câu hỏi vút lên đầy cay đắng và không lời giải đáp. Câu hỏi chất chứa nỗi đau của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân. Câu hỏi đánh thẳng vào bộ mặt của xã hội bất lương. Câu hỏi như cứa vào tâm can người đọc về một thân phận con người đầy đắng cay trong xã hội cũ. Lương thiện có ngay trong mỗi con người là di sản tinh thần của mỗi người. Tại sao phải đi đòi lương thiện ? À, thì ra Chí đã bị cái xã hội vô nhân tính ấy cướp mất. Khốn nạn thay cho Chí, ngay cả cái quyền được làm một con người cũng bị xã hội người ăn thịt người ấy bóp nát. Và Chí Phèo cũng đã tự kết liễu cuộc đời mình sau khi kết liễu cuộc đời tên cáo già Bá Kiến. Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời kết tội đanh thép cái xã hội vô nhân đạo, là tiếng kêu cứu về quyền làm người, cũng là tiếng gọi thảm thiết cấp bách của nhà văn Hãy cứu lấy con người! Hãy yêu thương con người! 3. Đánh giá chung về nội dung và nghệ thuật Về nội dung, Tác phẩm Chí Phèo thông qua tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật chính, nhà văn đã mang đến những giá trị nhân văn cao đẹp. Tác phẩm đã lên án, tố cáo tội ác của chế độ thực dân nửa phong kiến đã đàn áp và bóc lột nhân dân lao động. Qua đó nhà văn đồng cảm với những nỗi khổ đau, bị đày đọa và lăng nhục của người nông dân. Đồng thời nhà văn cũng kịp thời phát hiện và trân trọng trước vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật và khao khát thay đổi thực tại để mang đến một cuộc sống tốt đẹp hơn. Về nghệ thuật, Bút pháp điển hình hoá đạt tới trình độ bậc thầy trong xây dựng nhân vật. Nam Cao có biệt tài trong việc miêu tả, phân tích tâm lý nhân vật. Tác giả có khả năng trong việc miêu tả tâm lý phức tạp của nhân vật, làm cho nhân vật hiện lên trước mắt người đọc rất sống động, có cá tính độc đáo. Nghệ thuật trần thuật kể truyện linh hoạt tự nhiên phóng túng mà vẫn nhất quán, chặt chẽ, đảo lộn trình tự thời gian, mạch tự sự có những đoạn hồi tưởng, liên tưởng tạt ngang, tưởng như lỏng lẻo mà thực sự rất tự nhiên, hợp lý, hấp dẫn. Ngôn ngữ của Nam Cao cũng đặc biệt tự nhiên, sinh động, sử dụng khẩu ngữ quần chúng một cách triệt để, mang hơi thở đời sống, giọng văn hoá đời sống. Ngôn ngữ kể chuyện vừa là ngôn ngữ của tác giả, vừa là ngôn ngữ của nhân vật, nhiều giọng điệu đan xen, tạo nên một thứ ngôn ngữ đa thanh đặc sắc. III. KẾT BÀI “Chí Phèo” là một kiệt tác bất hủ bởi nó chứa đựng trong đó là tư tưởng, tình cảm lớn mang giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc mà người đọc rút ra được từ những trang sách giàu tính nghệ thuật của Nam Cao. Tác phẩm “Chí Phèo” mãi mãi bất tử, mãi mãi có khả năng đánh thức trí tuệ và khơi dậy những tình cảm đẹp đẽ trong tâm hồn người đọc mọi thời đại. Có một nhà thơ đã từng viết rằng “Nam Cao mất và Chí Phèo vẫn sống – Nào có dài chi một kiếp người – Nhà văn chết, nhân vật từ trang sách – Vẫn ngày ngày lăn lóc giữa trần ai”. Vâng! Gần một thế kỉ qua, giá trị nghệ thuật và ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm, vượt qua gió bụi thời gian, đã chứng minh sức sống mạnh mẽ, bất hủ của nó. Thầy Phan Danh Hiếu Tài liệu khóa học Luyện thi Đại học môn Ngữ văn. Đề bài Nghệ thuật đặc sắc trong “Chí Phèo”“Chí Phèo” thật sự là một kiệt tác, thể hiện đầy đủ nhất tài năng nghệ thuật xuất sắc, độc đáo của nhà văn Nam Cao. 1. Bút pháp điển hình hoá đạt tới trình độ bậc thầy trong xây dựng nhân vật. Nam Cao có biệt tài trong việc miêu tả, phân tích tâm lý nhân vật. Tác giả có khả năng trong việc miêu tả tâm lý phức tạp của nhân vật, làm cho nhân vật hiện lên trước mắt người đọc rất sống động, có cá tính độc đáo. Chí Phèo, Bá Kiến là những điển hình nghệ thuật bất hủ. Họ vừa tiêu biểu cho một loại người có bề dày xã hội, vừa là những con người rất cụ thể, có sức sống nội tại mạnh mẽ. a. Khác với những nhân vật của một số nhà văn đương thời có chức năng chủ yếu là khái quát tính cách nhân vật. “Chí Phèo” của Nam Cao đã khái quát một hiện tượng phổ biến đã trở thành quy luật trong xã hội lúc bấy giờ; hiện tượng những người nông dân nghèo lương thiện do bị áp bức bóc lột đè nén nặng nề bị đẩy vào con đường tha hoá lưu Tuy nhiên nhân vật của Nam Cao còn thể hiện như một nhân vật có cá tính hết sức độc đáo, không lặp lại, vừa đa dạng vừa thống nhất. Chí Phèo vừa là kẻ bán rẻ cả nhân tính, nhân hình để tồn tại, vừa là kẻ dám thủ tiêu sự sống của mình khi nhân phẩm đã trở về. Chí Phèo vừa là con quỷ dữ của làng Vũ Đại, một thằng triền miên chìm trong cơn say đến mất cả lý trí, vừa là kẻ khao khát lương thiện, muốn làm hoà với mọi người, vừa là một kẻ nô lệ thức tỉnh, một đầu óc sáng suốt nhất, tỉnh táo nhất của làng Vũ Đại khi đặt ra những câu hỏi có tầm khái quát sâu sắc về quyền được làm người lương thiện đến mức Bá Kiến cũng phải ngạc nhiên, Chí Phèo vừa là kẻ cố cùng, vừa là người tự xưng “anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”2. Nghệ thuật trần thuật kể truyện linh hoạt tự nhiên phóng túng mà vẫn nhất quán, chặt chẽ, đảo lộn trình tự thời gian, mạch tự sự có những đoạn hồi tưởng, liên tưởng tạt ngang, tưởng như lỏng lẻo mà thực sự rất tự nhiên, hợp lý, hấp Ngôn ngữ của Nam Cao cũng đặc biệt tự nhiên, sinh động, sử dụng khẩu ngữ quần chúng một cách triệt để, mang hơi thở đời sống, giọng văn hoá đời sống. Ngôn ngữ kể chuyện vừa là ngôn ngữ của tác giả, vừa là ngôn ngữ của nhân vật, nhiều giọng điệu đan xen, tạo nên một thứ ngôn ngữ đa thanh đặc sắc.“Chí Phèo” đánh dấu một trình độ phát triển mới của văn học và nghệ thuật viết truyện ở nước ta. Giáo viênNguyễn Quang Ninh. Nguồn – Ngôi trường chung của học trò Việt Trang 1 Chí Phèo là một trong những truyện ngắn thành công nhất của nhà văn Nam Cao, tác phẩm có sức sống bền vững theo thời gian, neo đậu vững chắc trong lòng người đọc xuyên suốt năm tháng và là ngôi sao sáng bậc nhất trên bầu trời văn học Việt Nam. Tác phẩm là bản án đanh thép tố cáo một xã hội thực dân nửa phong kiến tàn ác và mục ruỗng đã dồn người nông dân thấp cổ bé họng vào bước đường cùng, dẫn đến bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật để rồi cuối cùng lại hình thành nên con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Đồng thời, Chí Phèo còn khắc họa thành công hình ảnh người nông dân nghèo bị bần cùng hóa bởi đói kém bám riết, bị chèn ép bởi xã hội cũ khiến cho họ phải đánh mất đi bản chất thiện lương vốn có của mình. Đôi nét về tác giả Nam Cao và kiệt tác Chí Phèo Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, ông sinh năm 1917 tại huyện Lý Nhân, Hà Nam và mất vào năm 1951 tại Ninh Bình. Ông là một trong những nhà văn tiêu biểu cho dòng văn học hiện thực Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ XX. Những trang văn của Nam Cao luôn chứa đựng mối quan hoài thường trực về số phận bất hạnh của những người nông dân và người tri thức nghèo bị đói kém bám riết, bị xã hội đương thời chèn ép để rồi cuối cùng lại lạc đi trên bước đường làm người. Chân dung của nhà văn Nam Cao Ngòi bút của ông vừa sắc sảo vừa chân thực, trào phúng nhưng không thiếu phần tinh tế. Nam Cao mạnh dạn phân tích và mổ xẻ tất cả, không né tránh như Thạch Lam, không phiến diện như Vũ Trọng Phụng nhưng vẫn giữ được sự tỉnh táo trong văn chương. Nguyễn Minh Châu từng nhận định về văn chương của ông rằng ”Trong các trang truyện của Nam Cao, trang nào cũng có những nhân vật chính hoặc phụ đang đối diện với cái chỗ kiệt cùng với đời sống con người để rồi từ đó bắt buộc người ta phải bộc lộ mình ra, trước hết là tâm lí, nhân cách rồi tiếp đến sau cùng là cái nỗi đau khôn nguôi của con người.’’ Những tác phẩm của Nam Cao luôn lột tả cho người đọc thấy được cái bản chất xấu xa của xã hội và nhân tính hủ lậu của con người đương thời. Bén duyên với nghiệp văn từ năm mười tám tuổi và trong suốt mười lăm năm hành nghề, ông đã để lại cho đời sau một khối lượng tác phẩm khổng lồ từ truyện ngắn đến tiểu thuyết, tên tuổi Nam Cao gắn liền với những tác phẩm để đời như Sống mòn, Lão Hạc hay Đời thừa. Tác phẩm Chí Phèo trong tuyển tập truyện ngắn nổi tiếng của Nam Cao Trong đó không thể không nhắc đến Chí Phèo, một truyện ngắn có sức ảnh hưởng lớn đến văn đàn Việt Nam, đây là tác phẩm đã neo đậu vững chắc trong lòng độc giả qua bao thế hệ. Chí Phèo ban đầu có tên là Cái lò gạch cũ, xuất bản vào năm 1941 với tên Đôi lứa xứng đôi do Nhà xuất bản Đời mới – Hà Nội tự ý đổi tên. Tác phẩm về sau được Nam Cao đặt tên là Chí Phèo khi in lại trong tập Luống Cày do Hội văn hóa cứu quốc xuất bản vào năm 1946. Ảnh minh họa cho hai nhân vật Chí Phèo và Thị Nở Chí Phèo là một tác phẩm thể hiện rõ nét lối đi riêng biệt của Nam Cao trong sự nghiệp văn học, tập trung vào số phận của những người nghèo khổ ở quê hương. ’’Nghệ thuật không là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối! Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp người lầm than.” Tác phẩm không phải là một truyện ngắn dịu dàng lãng mạn hay cảm động lòng người, Chí Phèo là một tấm gương hiện thực đặt giữa xã hội đương thời, là bản án đanh thép tố cáo xã hội cũ và là một cái nhìn bế tắc cho những kiếp người bất hạnh. Những tiếng kêu đau khổ của những kiếp người lầm than thoát ra từ trang sách Tác phẩm mở đầu bằng hàng loạt tiếng chửi của Chí Phèo ngay từ những dòng văn đầu tiên của truyện ngắn, Nam Cao đã để người đọc thấy được chất lưu manh trong con người Chí, ông đẩy hắn ra giữa vở kịch của cuộc đời và để hắn đối thoại với đời bằng câu chửi. Những tiếng chửi đó dường như mở ra một cuộc đời ảm đạm đầy chua xót của Chí Phèo, xen lẫn trong câu chửi, người ta thấy được cả sự cô độc của hắn. Không một ai đáp lại lời Chí ngoài tiếng sủa của ba con chó dữ, hắn cứ chửi trời, chửi đất và chửi cả cái đứa đã đẻ ra thằng Chí. Tượng gốm của các nhân vật trong tác phẩm Còn ai đã đẻ ra Chí Phèo thì hắn không biết, cả làng Vũ đại không ai biết, đó có lẽ là bi kịch đầu tiên của truyện, bi kịch bám riết đời Chí từ khi hắn sinh ra với thân phận một đứa trẻ mồ côi, được người ta nhặt về ở lò gạch cũ và sống lang hết nhà này đến nhà khác trong những năm tháng ấu thơ. Năm hai mươi tuổi, Chí Phèo đi làm canh điền cho nhà Bá Kiến, chánh tổng hội đồng kỳ hào của làng Vũ Đại. Cụ Bá là người có quyền thế lại tâm cơ, ai cũng nể sợ. Năm đó Chí Phèo ở cho nhà cụ được vợ ba của Bá Kiến thường xuyên gọi lên hầu hạ xoa bóp tay chân. Chính điều này đã làm nổi lên máu ghen trong lòng Bá Kiến, cụ đã giải Chí Phèo lên quan, để hắn chịu một tội nào đó được sắp đặt sẵn và đi tù tám năm, chính cái nhà tù thực dân ấy đã tiếp tay cho bọn cường hào chèn ép những người nông dân lương thiện. Chí Phèo rạch mặt ăn vạ trước nhà Bá Kiến Sau những năm tháng tù đày, Chí trở về với một bộ dạng khác, kinh tởm và gớm ghiếc. Hắn đã đánh mất đi nhân hình cùng nhân tính của mình cho thù hận, để rồi người trở về làng Vũ Đại hôm nay không còn là Chí Phèo nữa mà là một con quỷ dữ khiến ai cũng phải khiếp sợ. “Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm […]. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!” – Trích đoạn miêu tả Chí Phèo. Nam Cao khắc họa rõ nét gương mặt của Chí qua từng con chữ như phản ánh một sự thật tàn nhẫn đến đau lòng, chính những bất công cùng sự chèn ép của tầng lớp thống trị trong xã hội cũ đã đẩy một con người thiện lương vào bước đường tha hoá, khiến họ đánh mất đi nhân tính của chính mình. Chí Phèo từ đây đã bị xã hội cự tuyệt đi quyền làm người, bị loại ra khỏi thế giới vốn dành cho loài người để rồi hắn lại tự biến mình trở thành quỷ dữ của làng Vũ Đại “Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện.” – Trích đoạn truyện ngắn Chí Phèo. Ai gặp Chí cũng khiếp sợ và tìm cách lảng tránh, giữa thời buổi loạn lạc đói kém chẳng ai muốn có thêm cho mình một mối phiền phức ”Ai cũng tránh mặt hắn mỗi lúc hắn qua.” Cuộc đời của Chí Phèo trượt dài trong bi kịch, nhuốm đầy bất hạnh và khổ đau. Đời hắn bây giờ không có gì ngoài những tiếng chửi, rượu và vài miếng thịt sống qua ngày, chẳng ai còn được thấy hình ảnh anh Chí hiền như đất khi xưa nữa, thay vào đó là con quỷ gớm ghiếc mà ai cũng xa lánh. Con quỷ của làng Vũ Đại xuất hiện trên màn ảnh Việt Nam Vậy mà Bá Kiến đã lợi dụng được con quỷ trong con người Chí Phèo để khiến nó làm việc cho cụ, bằng những lời dụ dỗ ngon ngọt cùng đôi đồng bạc lẻ, Bá Kiến đã thành công trong việc thu Chí về làm tay chân cho mình để hắn đi đòi nợ, đâm thuê chém mướn vào những lúc cần. Người ta gọi Chí Phèo là quỷ nhưng chính tầng lớp thống trị cũng như bọn cường hào đương thời mới thực sự là quỷ dữ. Chúng đã ăn mòn đi những mơ ước bình dị, những điều tốt đẹp trong con người của một người nông dân. Chí Phèo có chăng cũng chỉ là nạn nhân của thời cuộc, của những tội ác mục ruỗng thối nát chất chồng hết lớp này đến lớp khác. Ánh sáng lương tâm một lần nữa phát sáng nhưng cũng bị hiện thực tàn khốc dập tắt Trong tận cùng của bế tắc, khi Chí Phèo đã hoàn toàn đánh mất phần người của mình và chỉ còn lại phần con, Nam Cao vẫn nhìn thấy ở đâu đó trong thâm tâm hắn vẫn còn khát khao được yêu thương, mơ ước một lần nữa được hòa nhập lại với thế giới, được sống như một con người thực sự. Nhân vật Thị Nở trong phim Làng Vũ Đại ngày ấy Vậy nên ông đã cho Thị Nở, một người phụ nữ xấu đến ma chê quỷ hờn xuất hiện để khơi dậy phần người trong sâu thẳm của Chí Phèo. “Cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công; nó ngắn đến nỗi người ta có thể tưởng bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má hóp vào mới thật là tai hại, nếu má phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn… Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi; có lẽ vì cố qua quá cho nên chúng nứt nở như rạn rạ. Đã thế thị lại ăn trầu thuốc, hai môi dày được bôi cho dày thêm một lần, cũng may chất trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách.” – Trích đoạn miêu tả Thị Nở. Chính đêm ăn nằm như vợ chồng ấy cùng những ngày tháng ở bên Thị, bên bát cháo hành nghi ngút khói đã khiến Chí như thức tỉnh khỏi giấc mộng tăm tối của đời mình. Sau những ngày tháng bị hắt hủi và miệt thị bởi số đông loài người ngoài kia, Thị Nở là người đầu tiên khiến Chí Phèo cảm nhận được sự yêu thương, giúp hắn nhìn ra được cuộc đời vẫn còn ý nghĩa. Sự xuất hiện của Thị Nở là một bước ngoặt độc đáo đầy tính nhân văn của Chí Phèo, Nam Cao xây dựng Thị là một con người xấu xí không phải để miệt thị mà nhằm làm nổi bật lên nội tâm đầy tình thương của Nở. Bát cháo hành đổi lấy sự lương thiện của một con quỷ Chính Thị đã nhìn ra một con người khác của Chí Phèo mà không ai trong làng Vũ Đại có thể thấy được, như cách lời văn của Nam cao đã miêu tả. ”Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người.” Những tưởng cuộc sống của Chí đã khởi sắc sau ngày gặp Thị và từ đây hắn có thể quay trở về trên con đường làm người nhưng tất cả đã vỡ nát ngay sau khi bà cô của Thị Nở xuất hiện. Nhân vật bà cô là điển hình cho hình tượng người nông dân sống ở làng quê nông thôn Bắc Bộ trước Cách mạng tháng Tám, đó là một xã hội tha hóa về mọi mặt, từ quyền lực đến cả nhân cách của con người. Sống giữa thời kỳ loạn lạc ấy khiến người ta quẩn quanh bế tắc trong sự nghèo đói, làm họ trở nên lạnh lùng, tàn nhẫn hơn với chính mình và cả những người xung quanh. Cái định kiến hẹp hòi về xuất thân, nguồn gốc và quá khứ có sức ảnh hưởng ghê gớm đến suy nghĩ của con người, chính những định kiến đó đã dựng nên một bức tường cách trở Chí Phèo với thế giới loài người. Kể cả khi Chí được Thị Nở tái sinh bằng tình yêu khiến hắn thèm làm người, khát khao được hòa nhập với mọi người đến thế nào thì cũng không thể vượt qua được bức tường ấy. Bằng một câu nói, bà cô trong tác phẩm đã dập tắt đi tất cả hy vọng của Chí Phèo, khiến hắn rơi vào vực sâu tuyệt vọng, mất đi hoàn toàn tư cách được làm người. “Đàn ông chết hết cả rồi sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy một thằng chỉ có một nghề là đi rạch mặt ra ăn vạ.” – Câu nói của bà cô trong truyện ngắn. Để rồi cuối cùng, Chí Phèo đã đi gặp Bá Kiến để đòi lại lương thiện, thứ mà mỗi con người sinh ra đều mang sẵn trong người. Bi thảm thay những kiếp người đã đánh mất đi nhân tính của mình vào nghèo đói và tay bọn cường hào. ”Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa.” – Câu chất vấn đầy ám ảnh của Chí Phèo. Chí Phèo giết Bá Kiến và cũng kết liễu đời mình, đó có lẽ là sự giải thoát cho Chí khỏi cuộc đời tăm tối, khổ đau cùng bất hạnh. Cái chết của hai nhân vật mang nhiều tầng ý nghĩa mà Nam Cao đã gửi gắm. Chí Phèo là bản án đanh thép tố cáo bộ mặt xấu xa của xã hội cũ Nó vừa tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến thối nát đã bức người nông dân đến cùng đường tuyệt lộ, vừa nêu lên ý thức phản kháng của tầng lớp thấp, dù cho sự phản kháng này là đơn độc và liều lĩnh. Bá Kiến chết trong những tội lỗi mà hắn gây ra, còn Chí Phèo chết trong thân xác một người cố nông đáng thương lại đáng trách, đến lúc gục xuống bên vũng máu của mình vẫn chưa đòi lại được sự lương thiện. Nhưng chưa dừng lại ở đấy, bi kịch lại càng tiếp nối bi kịch khi Thị Nở bỗng nhớ đến đêm ăn nằm với Chí Phèo và nhìn xuống bụng của mình, rồi nghĩ – Nói dại, nếu mình chửa, bây giờ hắn chết rồi, thì làm ăn thế nào? Câu hỏi của Thị không có lời hồi đáp, nó như một chuỗi bi kịch không cách nào kết thúc. Để rồi mai đây vẫn nơi lò gạch cũ ấy, một Chí Phèo con lại ra đời và cũng là lúc một con quỷ nữa được hình thành. Chí Phèo là vàng được đãi trên dòng sông hiện thực Người nông dân nghèo luôn là chủ đề mà các nhà văn đương thời hướng ngòi bút đến, tuy nhiên Nam Cao vẫn để lại những dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả qua lối văn riêng biệt của mình, với ông ’’Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có…’’ Vì vậy có thể nói Chí Phèo chính là vàng được đãi từ dòng sông hiện thực đã qua tay bao nhà văn đi trước, tuy nhiên tác phẩm không vì thế mà đi theo khuôn mòn của chủ đề người nông dẫn mà đã đột phá theo cách riêng để trở thành một kiệt tác. Tác phẩm Chí Phèo được dựng thành kịch biểu diễn trên sân khấu Chính điều đó đã giúp cho tác phẩm trở thành một áng văn chương bất hủ neo đậu vững chắc trong lòng người đọc muôn đời. Hình ảnh Chí Phèo đã vượt ra khỏi những trang văn, chạm vào đời sống con người và tái hiện lại cho chúng ta thấy một hiện thực tàn khốc do xã hội đương thời gây nên và đã trở thành một áng văn điển hình. Tác phẩm chính là giọng nói riêng của Nam Cao, một chất giọng tàn nhẫn chua chát nhưng ẩn sâu bên trong là sự ấm nóng của tình thương mà không tìm được ở bất kỳ nhà văn nào khác. Chí Phèo được chuyển thể thành tiểu phẩm hài Không dừng lại ở đó, Chí Phèo còn kết hợp với hai tác phẩm lớn của Nam Cao là Lão Hạc và Sống mòn để chuyển thể thành phim lấy tên là Làng Vũ Đại ngày ấy, bộ phim đã để lại nhiều ấn tượng sâu đậm trong lòng khán giả cả nước trong suốt một thời gian dài. Giá trị của văn phẩm Chí Phèo vươn tầm thế giới Được mệnh danh là vàng đãi từ dòng sông hiện thực, Chí Phèo luôn mang trong mình trong mình một giá trị sâu sắc cả về nội dung lẫn nghệ thuật, chính sự tàn khốc của hiện thực cùng tính nhân văn cao cả đã khiến văn phẩm trở thành một kiệt tác của văn đàn Việt Nam. Không dừng lại ở đó, giá trị mà tác phẩm mang lại đã vượt xa khỏi biên giới văn học Việt mà vươn tầm thế giới, Chí Phèo được ra mắt bạn đọc nước ngoài bởi NXB Đại học Oxford nổi danh thế giới, chỉ đứng sau Đại học Cambridge. Trước đó, NXB này từng cho ra đời tuyển tập The light of the capital Three modern Vietnamese classics bao gồm các văn phẩm nổi danh bậc nhất của nền văn học hiện thực đầu thế kỷ XX như Tam Lang Tôi kéo xe, Nguyên Hồng Những ngày thơ ấu hay Vũ Trọng Phụng Cơm thầy cơm cô Không chỉ dừng lại ở nước Anh, Chí Phèo còn được dịch sang tiếng Pháp với với tên Chi Pheo, paria casse cou et autres nouve, ngoài sử dụng làm tài liệu tham khảo luận văn tiến sĩ ở Đại học Tây Úc và Victoria ở nước Úc. Bên cạnh đó, văn phẩm còn được trưng bày ở thư viện của trường Đại học Stanford danh giá của Mỹ. Ngoài ra, Chí Phèo cũng được so sánh với các văn phẩm khác như AQ chính truyện của Lỗ Tấn và Những người cùng khổ của Victo Hugo Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã thể hiện niềm tin tuyệt đối vào bản tính lương thiện của con người, đồng thời cũng khẳng định rõ ràng một điều rằng nghệ thuật không phải ánh trăng lừa dối, nghệ thuật là tiếng kêu đau khổ thoát ra từ những kiếp người lầm than. Chí Phèo chính là con diều lớn nhờ ngọn gió hiện thực mà bay cao, bay xa trên bầu trời văn học, trở thành một điểm sáng nổi bật giữa văn đàn Việt Nam. Diệu Uyển Bài làm tham khảo“Chí Phèo” thật sự là một kiệt tác, thể hiện đầy đủ nhất tài năng nghệ thuật xuất sắc, độc đáo của nhà văn Nam Bút pháp điển hình hoá đạt tới trình độ bậc thầy trong xây dựng nhân vật. Nam Cao có biệt tài trong việc miêu tả, phân tích tâm lý nhân vật. Tác giả có khả năng trong việc miêu tả tâm lý phức tạp của nhân vật, làm cho nhân vật hiện lên trước mắt người đọc rất sống động, có cá tính độc đáo. Chí Phèo, Bá Kiến là những điển hình nghệ thuật bất hủ. Họ vừa tiêu biểu cho một loại người có bề dày xã hội, vừa là những con người rất cụ thể, có sức sống nội tại mạnh Khác với những nhân vật của một số nhà văn đương thời có chức năng chủ yếu là khái quát tính cách nhân vật. “Chí Phèo” của Nam Cao đã khái quát một hiện tượng phổ biến đã trở thành quy luật trong xã hội lúc bấy giờ; hiện tượng những người nông dân nghèo lương thiện do bị áp bức bóc lột đè nén nặng nề bị đẩy vào con đường tha hoá lưu Tuy nhiên nhân vật của Nam Cao còn thể hiện như một nhân vật có cá tính hết sức độc đáo, không lặp lại, vừa đa dạng vừa thống nhất. Chí Phèo vừa là kẻ bán rẻ cả nhân tính, nhân hình để tồn tại, vừa là kẻ dám thủ tiêu sự sống của mình khi nhân phẩm đã trở về. Chí Phèo vừa là con quỷ dữ của làng Vũ Đại, một thằng triền miên chìm trong cơn say đến mất cả lý trí, vừa là kẻ khao khát lương thiện, muốn làm hoà với mọi người, vừa là một kẻ nô lệ thức tỉnh, một đầu óc sáng suốt nhất, tỉnh táo nhất của làng Vũ Đại khi đặt ra những câu hỏi có tầm khái quát sâu sắc về quyền được làm người lương thiện đến mức Bá Kiến cũng phải ngạc nhiên, Chí Phèo vừa là kẻ cố cùng, vừa là người tự xưng “anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”2. Nghệ thuật trần thuật kể truyện linh hoạt tự nhiên phóng túng mà vẫn nhất quán, chặt chẽ, đảo lộn trình tự thời gian, mạch tự sự có những đoạn hồi tưởng, liên tưởng tạt ngang, tưởng như lỏng lẻo mà thực sự rất tự nhiên, hợp lý, hấp Ngôn ngữ của Nam Cao cũng đặc biệt tự nhiên, sinh động, sử dụng khẩu ngữ quần chúng một cách triệt để, mang hơi thở đời sống, giọng văn hoá đời sống. Ngôn ngữ kể chuyện vừa là ngôn ngữ của tác giả, vừa là ngôn ngữ của nhân vật, nhiều giọng điệu đan xen, tạo nên một thứ ngôn ngữ đa thanh đặc sắc.“Chí Phèo” đánh dấu một trình độ phát triển mới của văn học và nghệ thuật viết truyện ở nước Thầy Nguyễn Quang NinhBình luận cho bài viết Nhận xét Có phải bạn đang tìm kiếm chủ đề về => Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Chí Phèo phải không? Nếu đúng như vậy thì mời bạn xem nó ngay tại đây. Xem thêm các bài tập khác tại đây => Giáo dục Tác phẩm Chí Phèo là một tác phẩm xuất sắc của nhà văn Nam Cao nói riêng và nền văn học Việt Nam nói chung. Đây là một truyện ngắn không chỉ mang giá trị nội dung vô cùng sâu sắc mà giá trị nghệ thuật nó còn là một chủ đề vô cùng hay trong chương trình Ngữ Văn lớp 11 cần nhớ. Kiểm tra các chi tiết dưới đây Tóm lượcGiá trị nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm Chí Phèo – Nam CaoGiá trị nội dung và nghệ thuật trong Chí PhèoGiá trị nội dung trong tác phẩm Chí Phèo của Nam CaoGiá trị nghệ thuật trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao Tóm lượcGiá trị nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm Chí Phèo – Nam Cao Để có thể nhớ hết những giá trị về nội dung và nghệ thuật, bạn có thể nhớ những chi tiết quan trọng như sau Về nội dung Bạn đang xem Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Chí Phèo – Tố cáo xã hội phong kiến ​​bất công khiến con người sinh ra là người nhưng không được làm người – Qua đó nhấn mạnh hình ảnh, bản chất tốt đẹp của người dân lao động ngay cả khi tưởng đã bị xã hội tàn bạo cướp đi sinh mạng. Về nghệ thuật – Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật – Nghệ thuật miêu tả tâm lí tài tình. – Nghệ thuật trần thuật, kết cấu tươi tắn, uyển chuyển, phóng túng – Ngôn ngữ, giọng điệu sôi nổi – Cốt truyện độc đáo, tình tiết gay cấn. Để hiểu thêm về tác phẩm, các bạn có thể tham khảo bài viết Soạn bài Chí Phèo với những phân tích chi tiết để làm nổi bật giá trị của tác phẩm. Giá trị nội dung trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao – Giá trị thực Sự áp bức, bóc lột, tàn ác của thực dân, phong kiến ​​đối với nông dân trong xã hội cổ đại Số phận của những người nông dân Việt Nam trước cách mạng vô cùng bi đát, bị bần cùng hóa và trở thành kẻ du côn. Họ bị đẩy vào con đường tha hóa, trác táng và cái chết là điều tất yếu để giải thoát họ khỏi đau khổ. – Giá trị nhân đạo Lên án gay gắt xã hội phong kiến, thực dân tàn bạo đã hủy hoại cả thể xác và tâm hồn của người nông dân lao động hiền lành, chất phác. Dẫn chứng Mẫu mực của một xã hội có đủ mọi tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ là chân dung những con người như Bá Kiến, như bà Thị Nở, như dân làng Vũ Đại. . Đồng cảm, sẻ chia, đau xót khi chứng kiến ​​những người dân hiền lành, lương thiện bị hành hạ, biến thành quỷ dữ của cả làng Vũ Đại. Trích dẫn Cho dù Chí Phèo có khao khát được trở lại làm người lương thiện thì xã hội ích kỷ, hẹp hòi cũng không chừa chỗ cho hắn. Anh ta chỉ còn một con đường duy nhất, đó là cái chết, để giữ lại sự lương thiện cuối cùng trong con người mình. Khẳng định niềm tin của tác giả vào bản chất lương thiện của người nông dân Trích dẫn Ngay cả khi họ bị vùi dập, mất đi cả nhân tính và con người thì khát vọng được sống, được yêu và được hạnh phúc vẫn chưa bao giờ bị dập tắt trong họ. Như lời cảnh báo của tác giả đối với số phận của những người nông dân Việt Nam trước Cách mạng, nếu không thay đổi thì cuộc sống của họ sẽ bế tắc, vô vọng, tha hóa, lưu manh và cái chết sẽ là điều tồi tệ nhất. không thể tránh khỏi. Trích dẫn Điều này được thể hiện qua chi tiết Thị Nở xem nhanh bụng bầu và dự đoán một đứa bé Chí Phèo sẽ ra đời. Giá trị nghệ thuật trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao 1. Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật Chí Phèo và Bá Kiến là những tấm gương tiêu biểu trong tác phẩm. Sinh động, độc đáo, không lặp lại, mang tính khái quát cao về mâu thuẫn gay gắt ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng, đặc biệt là nhân vật Chí Phèo. Ông là tấm gương sinh động cho những người nông dân bị quân tàn bạo tiêu diệt, tha hóa đến cùng -> xây dựng nhân vật điển hình sắc nét. 2. Nghệ thuật miêu tả tâm lí tài tình. Trong truyện ngắn đã tạo nên những đoạn văn hay. Số phận và bi kịch của Chí Phèo được khắc sâu qua những đoạn văn hay như đoạn Chí Phèo tỉnh dậy sau một đêm say và gặp Thị Nở; đoạn Chí Phèo bị từ chối tình yêu… 3. Cốt truyện độc đáo, tình tiết gay cấn, luôn thay đổi mang đến nhiều bất ngờ cho người đọc Kết cấu hình tròn, khép kín đã tạo nên chiều sâu cho truyện cổ tích Truyện mở đầu bằng hình ảnh đứa trẻ trần truồng xám xịt nằm cạnh lò gạch cũ, kết thúc bằng hình ảnh Thị Nở cúi gằm mặt suy nghĩ mông lung. đến một lò gạch xa vắng không người qua lại … => Kết cấu này thể hiện số phận bế tắc, vướng mắc của kiếp người trong xã hội bóc lột. Chí Phèo đã chết thì còn bao nhiêu kiếp nữa Chí Phèo sẽ lặp lại? 4. Ngôn ngữ, giọng điệu sôi nổi Ngôn ngữ và giọng điệu của Nam Cao được thể hiện một cách sinh động và đa dạng trong truyện ngắn này. Ngòi bút hiện thực vừa tỉnh táo, khách quan, vừa lạnh lùng, vừa đằm thắm, vừa trữ tình như hòa quyện, thẩm thấu vào nhau. Ngoài ra, giọng kể cũng thay đổi phù hợp với diễn biến tâm lý nhân vật, có khi sử dụng lời kể trực tiếp, có khi nửa trực tiếp, có khi có sự đan xen giữa hai giọng kể trên một cách nhịp nhàng, uyển chuyển. nhuyễn các ví dụ đoạn mở đầu tác phẩm, đoạn miêu tả tâm trạng khi ăn bát cháo hành, đoạn độc thoại nội tâm của Bá Kiến. 5. Cách tường thuật linh hoạt và cực kỳ hấp dẫn Đoạn văn mở đầu rất độc đáo, gây ấn tượng mạnh bởi lối kể nửa trực tiếp, có sự xen kẽ lời kể của người kể Vừa đi vừa chửi … với lời độc thoại của nhân vật Ôi! Giận dữ quá! …. Tác giả đã phá vỡ trật tự thông thường, sử dụng lối trần thuật theo dòng nội tâm của nhân vật để tường thuật lại diễn biến. Vì vậy, trong lời kể, hiện tại và kí ức được đan xen đoạn mở đầu, đoạn miêu tả Chí Phèo “tỉnh dậy sau một cơn say rất dài” ở cuối truyện,…, người kể và lời nhân vật đôi khi. hợp nhất, làm cho điểm nhìn trần thuật thay đổi linh hoạt có khi câu chuyện được trần thuật với cái nhìn khách quan từ bên ngoài, đôi khi lại biến thành điểm nhìn chủ quan của nhân vật. đối tượng từ bên trong. So với quy mô của một truyện ngắn, tác phẩm Chí Phèo tương đối dài nhưng không gây nhàm chán vì cách kể luôn thay đổi và các đoạn độc thoại nội tâm sinh động như đoạn độc thoại nội tâm của nhân vật Chí Phèo sau khi tỉnh dậy. Kết luận Những cảm nhận và đánh giá chung về giá trị nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm Chí Phèo. Bạn có thể đưa ra những suy nghĩ và ý tưởng của mình về tác phẩm. Trên đây là những nội dung cơ bản của việc đánh giá và phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm Chí Phèo – Nam Cao. Hi vọng bài viết này sẽ giúp các bạn củng cố những kiến ​​thức đã học về tác phẩm và vận dụng làm bài phân tích giá trị nội dung nghệ thuật của tác phẩm! Chúc may mắn trong kỳ thi! Trình bày, phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao trong chương trình Ngữ văn lớp 11 tập 1. Đăng bởi THPT Sóc Trăng Thể loại Giáo dục Bạn thấy bài viết Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Chí Phèo có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu không hãy comment góp ý thêm về Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Chí Phèo bên dưới để có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website

nghệ thuật chí phèo