Em còn quá nhỏ, ba mẹ phải dành nhiều thời gian lo cho em. Còn con, con lớn hơn nên ba mẹ tin tưởng, an tâm về con. Ba mẹ rất thương con. Hơn nữa, con lại còn biết phụ giúp ba mẹ. Từ khi có em, mẹ thấy con rất người lớn, mẹ rất vui. Con có thương em không? Tôi nói lí nhí Cũng may có một chị bạn và cô em con cậu qua ở lại và chăm sóc. Mấy ngày sau chồng em gái tôi mới vào. Có lẽ vì trong bào thai dây rốn đã bị thế nên 58 ngày mà rốn của cháu chưa rụng, 1 tháng sau đã qua tái khám, và vẫn nhờ y tá về nhà chăm sóc hàng ngày Đó là người ta không thể dạy nhau cách tư duy, và sự sáng tạo. Thật vậy, ông Socrates, triết gia vĩ đại nhất châu Âu, cách đây 4000 năm đã phát biểu: Tôi không thể dạy ai bất cứ điều gì. Tôi chỉ có thể khiến người ta phải suy nghĩ mà thôi. Chúng ta chỉ có thể TẠO Con về đây [G] rồi mẹ giờ nơi [D] đâu. Tưởng mùa xuân này mẹ con có [G] nhau. Tha [Am] hương ruột xé gan [C] cồn cào. Nghe [Em] bao nỗi nhớ thương [D] dạt dào. Nhớ mẹ vô [C] cùng những [D] ngày lạnh lùng gió [G] mưa. ĐK: Mẹ [G] ơi [Bm] mẹ của con [Am] ơi. Xuân [D] sang trai gái Cái này là một đoạn văn dài khoảng hơn 1 trang giấy nha,ko phải là một bài văn đâu.Không hề chép mạng đâu. Xin chào,tôi là anh đội viên đây,người đã chiến đấu để nước nhà mới có được sự độc lập,tự do đây,bây gời đất nước đã hòa bình,tôi vui lắm.Và trong cuộc đời bao thăng trầm với bao nhiêu cash. Đèn khoe đèn tỏ hơn trăng Đèn khoe đèn tỏ hơn trăng Đèn ra trước gió còn chăng hỡi đèn? Trăng khoe trăng tỏ hơn đèn Cớ sao trăng lại chịu luồn đám mây? Cùng thể loại Trời cao bể rộng bao la Trời cao bể rộng bao la Việc gì mà chẳng phải là may ta Trong việc nhà, ngoài thì việc nước Giữ làm sao sau trước vẹn tuyền Lọ là cầu Phật, cầu Tiên Trời cho cày cấy đầy đồng Trời cho cày cấy đầy đồng Xứ nào xứ ấy trong lòng vui ghê Một mai gặt lúa đem về Thờ cha kính mẹ nhiều bề hiếu trung Lúa một chục trả một thiên Lúa một chục, trả một thiên Cho vay cắt cổ đừng phiền tại ai! Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm. Hãy cân nhắc trước khi bấm xem. Đi đứng thì phải khoan thai Đi đứng thì phải khoan thai Đừng đi vội vã lồn nhai trẹo lồn Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm. Hãy cân nhắc trước khi bấm xem. Trên đời nhất đẹp là lồn Trên đời nhất đẹp là lồn Nhất ngon là muối, nhất khôn là tiền Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm. Hãy cân nhắc trước khi bấm xem. Em ơi chớ có bồn chồn Em ơi chớ có bồn chồn Đến năm mười bốn thì lồn mọc lông Mười lăm chỗ có chỗ không Đến năm mười sáu thì lông ra đều Mười bảy lông ngả một chiều Đến năm mười tám có nhiều sợi quăn Anh nhiêu đi học không thầy Anh nhiêu đi học không thầy Làm bài không bút thiếp rày theo anh Chàng ràng bắt cá hai tay Chàng ràng bắt cá hai tay, Con trong cũng mất con ngoài cũng không Ở đây ăn bát rau chành Ở đây ăn bát rau chành Còn hơn chốn khác mâm gành cỗ gơ Trên trời có cả cầu vồng Trên trời có cả cầu vồng, Có cái mống cụt đằng đông sờ sờ. Có cùng từ khóa Ở nuôi cha mẹ trọn niềm Ở nuôi cha mẹ trọn niềm, Bao giờ trăng khuyết lưỡi liềm sẽ hay. Trăng kia còn có đêm rằm Trăng kia còn có đêm rằm, Thấu chăng kiếp thợ tối tăm một đời Bấy lâu thức nhắp mơ màng Bấy lâu thức nhắp mơ màng Bên rèm tiếng gió, đầu giường bóng trăng Bấy lâu sao chẳng nói năng Bấy lâu sao chẳng nói năng Bây giờ năng nói thì trăng xế tà Trăng khi tròn khi khuyết, nước khi lớn khi ròng Trăng khi tròn khi khuyết, Nước khi lớn khi ròng Vè kể giăng Mồng một cho tới mồng năm Giăng còn thơ ấu, tối tăm biết gì Mồng sáu, mồng bảy trở đi Đến ngày mồng tám giăng thì lên cao Mồng chín giăng ánh vườn đào Mồng mười giăng mọc đã cao hơn đầu Mười một sáng cả vườn dâu Mười hai giăng ở địa cầu trung thiên Mười ba giăng gió giữ duyên Đến ngày mười bốn giăng lên giữa trời Gặp giăng em hỏi em chơi Liệu giăng sáng cả trần đời được chăng? Đến rằm giăng đã lên cao Tới ngày mười sáu giăng treo tỏ tường Mười bảy giăng sẩy chiếu giường Mười tám dọn dẹp cương thường anh đi Mười chín em định em ngồi Hai mươi giấc tết, em thì ra trông Kể từ hăm mốt nửa đêm Giăng già thì cũng có phen bạc đầu Cuối tháng giăng xuống biển sâu Ba mươi mồng một ai cầu được giăng Ra về cầm quạt che trăng Ra về cầm quạt che trăng Lòng thương em đáo để biết mần răng hỡi trời! Sáng trăng mà lội Thu Bồn Sáng trăng mà lội Thu Bồn Lung linh bóng nước in hình của em Anh đi trên đường Ba Vát Anh đi trên đường Ba Vát Anh đạp cát, cát nhỏ Anh đạp cỏ, cỏ mòn Yêu nhau thời độ trăng tròn Bây giờ trăng khuyết vẫn còn yêu nhau Sáng giăng rõ lắm mình ơi Sáng giăng rõ lắm mình ơi Công việc bỏ đó ra chơi ngoài này Lọ là Chẳng lọ, chẳng cứ gì, chẳng cần, hà tất từ cũ. Bấy lâu đáy bể mò kim, Là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa? Ai ngờ lại họp một nhà, Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm! Truyện Kiều Thiên Đơn vị đo lường thóc gạo. Mỗi thiên bằng một trăm giạ. "Tinh thần khoa trương, tự hào của người lưu dân cũng được thấy biểu lộ trong ngôn ngữ thường nhật bằng cách ngoa ngữ, nghĩa là họ nói quá đi. ... Thí dụ như 10 giạ lúa thì gọi là "một trăm lúa"; còn 100 giạ thì gọi là "một thiên lúa", tức 1000 giạ." Văn truyền khẩu trên đất Đồng Nai - Nguyễn Văn Hầu Nhiêu Chức vị ở làng xã thời phong kiến, thường phải bỏ tiền ra mua để được quyền miễn tạp dịch. Rày Nay, bây giờ phương ngữ. Chàng ràng Quanh quẩn, vướng bận, chậm chạp để kéo dài thời gian hoặc gây chú ý. Rau chành Rau vặt vãnh phương ngữ Bắc Trung Bộ. Mâm gành cỗ gơ Mâm gỗ, cỗ được xếp thành nhiều tầng phương ngữ Bắc Trung Bộ. Thức nhấp Thức ngủ, tỉnh giấc từ cũ. Cũng viết là thức nhắp. Nước ròng Mực nước thấp nhất khi thủy triều xuống. Ngược lại với nước ròng là nước lớn, mực nước khi triều lên cao nhất. Giăng Trăng phương ngữ Bắc Bộ. Lòng tôi không giăng gió Nhưng gặp người gió giăng Khúc hát - Lưu Quang Vũ Cương thường Cũng đọc là cang thường, cách nói tắt của tam cương ngũ thường, một khái niệm về đạo lí của Nho giáo trong chế độ phong kiến dành cho nam giới. Tam cương nghĩa là ba giềng mối cương là đầu mối của lưới, nắm được cương thì các mắt lưới sẽ giương lên, gồm có quân thần vua tôi, phụ tử cha con, và phu phụ chồng vợ. Ngũ thường năm đức tính phải có gồm Nhân đức khoan dung, lễ lễ độ, nghĩa đạo nghĩa, trí trí tuệ và tín lòng thành thật. Trong ca dao - dân ca, đạo cang thường thường dùng để chỉ tình cảm vợ chồng. Mần răng Làm sao phương ngữ Trung Bộ. Sông Thu Bồn Tên con sông bắt nguồn từ núi Ngọc Linh tỉnh Kon Tum phần thượng lưu này được gọi là Đak Di, chảy lên phía Bắc qua các huyện trung du của tỉnh Quảng Nam đoạn chảy qua các huyện Tiên Phước và Hiệp Đức được gọi là sông Tranh - bắt đầu qua địa phận Nông Sơn, Duy Xuyên mới được gọi là Thu Bồn, đổ ra biển tại cửa Đại, một nhánh chảy vào sông Vĩnh Điện để đổ nước vào sông Hàn. Sông Thu Bồn cùng với sông Vu Gia tạo thành hệ thống sông lớn gọi là hệ thống sông Thu Bồn, có vai trò quan trọng đối với đời sống và văn hóa người Quảng. Sông Thu Bồn tại Hội An, Quảng Nam Ba Vát Còn gọi Ba Việt, địa danh gốc Khmer Pears Watt, nghĩa là là chùa Phật. Vào thế kỷ XVIII, nơi đây là huyện lỵ của huyện Tân An - một trung tâm kinh tế khá phồn thịnh thời bấy giờ. Hiện nay Ba Vát là một thị trấn thuộc huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre. Do cách phát âm của người Nam Bộ, một số tài liệu địa danh này cũng được ghi thành Ba Giác. Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm. Hãy cân nhắc trước khi bấm xem. Em ơi chớ có bồn chồn Em ơi chớ có bồn chồn Đến năm mười bốn thì lồn mọc lông Mười lăm chỗ có chỗ không Đến năm mười sáu thì lông ra đều Mười bảy lông ngả một chiều Đến năm mười tám có nhiều sợi quăn Cùng thể loại Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm. Hãy cân nhắc trước khi bấm xem. Đi đứng thì phải khoan thai Đi đứng thì phải khoan thai Đừng đi vội vã lồn nhai trẹo lồn Sầu từ bể Sở, sông Ngô Sầu từ bể Sở, sông Ngô Lấy ai chăm sóc sớm khuya việc chường Con thơ anh bỏ cho nường Con thơ anh bỏ cho nường Mẹ già đầu bạc phận nường long đong Lặc lìa biển trải thảm xanh Lặc lìa biển trải thảm xanh Lô nhô sóng bạc trổ cành hoa tươi Vườn hoa bướm lượn thảnh thơi Gió đưa buồm trắng ra khơi chập chờn Ví dù theo lái xuống tàu Ví dù theo lái xuống tàu Thì em mới biết cá gầu có gai Con bơn, con nhệch là hai Con còng, con ghẹ, nó tài đào hang Kể rằng cá đuối bơi ngang Cái đuôi có điện ra đàng làm cao Lại tăm con cá đuối sao Nước lên cả nước gặp ngay cá ngần Biển sâu lại có chướng ngầm Cá ăn nó lượn ba lần nó ra Cá Ông thì ở bể xa Lưỡng long chầu nguyệt có ngà đôi bên Lần đầu xuống bến xuống thuyền Sao mà em biết nhãn tiền cá Ông Ví dù em có sang sông Thì em mới biết cá Ông chầu đền Kể từ mặt biển kể lên Chim, thu, nhụ, đé, vược hên nhất đời Cá he ngậm nước bao giờ Mà em dám nói đổ ngờ cá he Kể cả con cá mòi he Xương dăm vẫn mặc cứ le cho vào Kể từ con cá chuồn hoa Nó nhảy một cái qua ba lần thuyền Kể từ con cá đối đen Bắt được đi bán lấy tiền ăn chơi Dưới bể có cả đồi mồi Có con lợn bể nó bơi cả ngày Kể cả con cá mó tày Vàng xanh cả vẩy cả vây cũng mừng Kể cả con mực, con nhưng Cứ cầm cho chặt lưới thừng không buông Con mực nhuộm đục cả luồng Đón đuôi thả lưới mà buông đến cùng Cá mập bơi lội vẫy vùng Khoanh tay vược lộn ở vùng bể Đông Kể từ cá mú, cá song Cá nhung, cá cúng, cá hồng Áng Gai Cá sông kể cũng rất tài Cá mè, cá chép, ở khe ngọn nguồn Trở giời nó mới lượn lên Ví dù em ở đồng trên gần nguồn Thì em mới biết nguồn cơn Thì em mới biết cá rô, trê đồng Bây giờ em chưa có chồng Làm gì em biết thuộc lòng cá chim? Em lên lưng voi em hỏi cái đường vạn tượng Em lên lưng voi em hỏi cái đường vạn tượng Tay em lại dắt dê hỏi chốn lan dương Đố anh mà đối đặng em cho soi gương vàng. – Dây bí ngô trèo trên cây trụ tàu Cờ thượng mã phất sau đuôi ngựa Anh đối đặng rồi lật ngửa gương ra. Đêm hăm lăm tháng hai năm Mão Đêm hăm lăm tháng hai năm Mão Quan trường giã gạo giữa chốn ba quân Bạn mày râu ai giỏi quốc văn Về đây tranh giải với bạn thoa quần thử chơi – Gái Tây Thi chẳng ai bì bên nước Việt Gái Văn Khương lại ở bên nước Tề Nực cười cô gái nhà quê Đến đây có dám trổ nghề văn chương Quan Thừa Thiên thì mang áo địa Quan Thừa Thiên thì mang áo địa, Lính Đông Hải đội nón dầu sơn Trai nam nhi đối đặng, thiếp kết nghĩa Tấn Tần ngàn năm. – Gái nước Nam buôn hàng thuốc Bắc Trai Đông sàng cảm động miền Tây Anh đã đối đặng, em rày tính sao. Đan tấm mành mành khó đổi khó thay Đan tấm mành mành khó đổi khó thay Một khi căn duyên hòa hợp bác chống cao tay cũng hỏng cằm Cảnh trời ai bán tôi mua Cảnh trời ai bán tôi mua, Mua non mua nước, mua chùa mua hương. Bể Sở, sông Ngô Ở khắp mọi nơi Sở và Ngô là hai nước thời Xuân Thu, Trung Quốc. Một tay gây dựng cơ đồ, Bấy lâu bể Sở, sông Ngô tung hoành Truyện Kiều Chường Chàng phương ngữ Bắc Trung Bộ. Ví dầu Nếu mà, nhược bằng từ cổ. Cũng nói là ví dù. Lái Người chuyên nghề buôn chuyến một loại hàng hóa nhất định lái gỗ, lái trâu... Cá mú Tên chung một họ cá biển cho thịt trắng, dai, ngọt. Có ba loại cá mú chính là cá mú đỏ, cá mú đen, cá mú cọp, trong đó cá mú đỏ là loài cá quý hiếm nhất, hai loại còn lại thì hiện nay đang được nuôi khá nhiều. Tùy theo từng địa phương mà cá mú còn được gọi là cá song, cá gàu gầu, cá mao… Cá mú đỏ Thờn bơn Còn gọi là cá bơn, một loại cá thân dẹp, hai mắt nằm cùng một bên đầu. Vì vị trí hai mắt như vậy nên khi nhìn chính diện có cảm giác miệng bị méo. Cá thờn bơn Cá lịch Có nơi gọi là lệch hoặc nhệch, tên chung của một số loài cá-lươn phổ biến. Cá lịch có hình dạng tương tự con lươn, mình thon dài, da trơn không vảy, đuôi thon nhọn, mắt nhỏ. Tùy vào từng loài khác nhau, cá lịch có thể có vây hoặc không vây, cũng như màu da có thể là màu trơn hoặc có đốm hay có sọc. Các loài cá lịch thường sống ở biển hoặc ở vùng nước lợ cửa sông, nhưng cũng có thể bơi ngược dòng đến sống ở sông ngòi hay ruộng đồng nước ngọt. Vào ban ngày, cá lịch chui rúc trong bùn, cát, đến đêm thì bơi ra kiếm ăn ở tầng đáy nước. Thức ăn của cá lịch là các loài cá hay giáp xác nhỏ. Đối với người Việt Nam, cá lịch là một loài thủy sản bổ dưỡng tương tự như lươn. Cá lịch cu Cá lịch đồng Còng Một loại sinh vật giống cua cáy, sống ở biển hoặc các vùng nước lợ. Còng đào hang dưới cát và có tập tính vê cát thành viên nhỏ để kiếm thức ăn. Ngư dân ở biển hay bắt còng làm thức ăn hằng ngày hoặc làm mắm. Con còng Ghẹ Vùng Bắc Trung Bộ gọi là con vọ vọ, một loại cua biển, vỏ có hoa, càng dài, thịt nhiều và ngọt hơn cua đồng. Con ghẹ Cá đuối Một loài cá biển, cùng họ với cá nhám, thân dẹp hình đĩa, vây ngực rộng, xòe hai bên, đuôi dài. Cá đuối Cá ngần Còn gọi là cá ngân, cá cơm ngần, cá sữa, cá thủy tinh, hay cá bún, một loại cá không xương, nhỏ như con tép, màu trắng hoặc trong suốt, sống trong môi trường nước ngọt hoặc nước lợ. Từ cá ngần có thể chế biến ra nhiều món ngon như canh chua, cá chiên trứng, chả cá ngần… Cá ngần Cá Ông Tên gọi của ngư dân dành cho cá voi. Do cá voi có tập tính nương vào vật lớn như thuyền bè mỗi khi có bão, nên nhiều ngư dân mắc nạn trên biển được cá voi đưa vào bờ mà thoát nạn. Cá voi được ngư dân tôn kính, gọi là cá Ông, lập nhiều đền miếu để thờ. Bộ xương cá Ông trong đền thờ ở vạn Thủy Tú, Phan Thiết Lưỡng long chầu nguyệt Hai con rồng chầu mặt trăng cũng gọi là "rồng chầu mặt nguyệt". Đây là chi tiết phù điêu thường gặp trên các mái đình đền, chùa chiền ở nước ta, mang ý nghĩa tâm linh thuần phục thánh thần. Lưỡng long chầu nguyệt Cá chim Một loài cá biển, mình dẹp và cao, mồm nhọn, vẩy nhỏ, vây kín. Cá chim Cá thu Loại cá biển, thân dài, thon, không có hoặc có rất ít vảy. Từ cá thu chế biến ra được nhiều món ăn ngon. Cá thu Cá nhụ Cũng gọi là cá chét, một loại cá biển thân dài, dẹt bên, đầu ngắn, mắt to. Thịt cá dai, ngọt và nhiều chất dinh dưỡng, xương mềm. Cá thường được chiên lên chấm với nước mắm tỏi, ớt ăn kèm rau sống hoặc nấu canh ngót hoặc sốt cà chua, kho cà chua, kho tiêu, kho tộ… Cá nhụ Cá đé Cũng gọi là cá lặc, một loài cá biển thân dài, đầu ngắn, thân màu trắng bạc. Cá đé có thịt thơm ngon hảo hạng, hiếm có khó tìm, được xếp vào “tứ quý ngư” chim, thu, nhụ, đé, bốn loài cá quý của Việt Nam. Cá đé Cá vược Một loại cá sinh trưởng ở nước ngọt, nước lợ và di cư ra vùng nước mặn để đẻ. Ở nước ta, cá vược phân bố dọc bờ biển từ Bắc đến Nam và được đánh giá có giá trị kinh tế cao, đã được thuần hóa để nuôi cả trong điều kiện nước mặn và nước ngọt. Cá vược nuôi Cá he Một loại cá nước ngọt thường gặp ở miền Tây Nam Bộ, họ hàng với cá mè. Cá he có đuôi và vây màu đỏ, vẩy bạc. Thịt cá he ngon, béo nhưng có nhiều xương. Xem thêm Câu cá he. Cá he Cá mòi Một loại cá thuộc họ cá trích, có tập tục bơi thành đàn từ biển ngược lên nguồn vào tháng giêng để đẻ trứng, vì vậy nhân dân ta thường giăng lưới bắt cá mòi ở sông vào dịp này. Cá mòi ngon nhất là trứng cá, và thường được chế biến thành các món nướng, món kho. Cá mòi có hai loại cá mòi lửa và cá mòi he. Cá mòi Cá chuồn Tên một họ cá biển có chung một đặc điểm là có hai vây ngực rất lớn so với cơ thể. Hai vây này như hai cánh lượn, giúp cá chuồn có thể "bay" bằng cách nhảy lên khỏi mặt nước và xòe vây lượn đi, có thể xa đến khoảng 50 mét. Cá chuồn sống ở những vùng biển ấm, thức ăn chủ yếu của chúng là các phiêu sinh vật biển. Ở nước ta, cá chuồn có nhiều ở những vùng biển miền Trung. Cá chuồn có thể chế biến thành nhiều món ăn như nướng, kho, nấu bún... Cá chuồn đang bay. Cá đối Một loại cá có thân tròn dài, dẹt, vảy tròn, màu bạc. Cá đối được chế biến nhiều món ăn ngon, hấp dẫn như cá đối nướng, cá đối chiên, cá đối kho dưa cải, cháo cá... Cá đối kho thơm Đồi mồi Một loài rùa biển, mai có vân đẹp nên thường bị đánh bắt để làm đồ mĩ nghệ lược, vòng tay, vòng đeo cổ.... Những đốm nám trên da hoặc trái cây cũng gọi là vết đồi mồi. Con đồi mồi Lợn biển Động vật có vú thuộc bộ bò biển, sống ở biển hoặc cá vùng cửa sông, có thân hình to lớn cá thể trưởng thành nặng khoảng nửa tấn, chuyên ăn các loại thực vật dưới biển. Lợn biển Cá mó Cũng gọi là cá lưỡi mèo hoặc cá vẹt, một loài cá biển có thân hình dẹt, khá mềm, rất nhiều thịt. Thịt của cá mó có hương vị đậm đà, dễ chế biến thành các món kho, chiên hay canh. Cá mó Nhưng Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Nhưng, hãy đóng góp cho chúng tôi. Cá nhung Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Cá nhung, hãy đóng góp cho chúng tôi. Cá cúng Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Cá cúng, hãy đóng góp cho chúng tôi. Cá hồng Loài cá có thân bầu dục dài dẹt, thân cá có màu hồng, viền lưng cong đều, viền bụng tương đối thẳng. Đầu cá lõm, mõm dài và nhọn, vây lưng dài, có gai cứng khỏe. Đa số các giống cá hồng sống ở biển, trừ một số ít loài sống trong môi trường nước ngọt. Cá hồng biển Hồng Gai Cũng gọi là Hòn Gai, tên cũ là Bang Gai hoặc Áng Gai, nay là một phường thuộc thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Cuối thế kỷ 19 trở về trước, đây là một vùng vắng vẻ, cư dân thưa thớt, vốn chỉ là vũng biển đậu thuyền. Tại đây có mỏ Hòn Gai, một mỏ than đã được đưa vào khai thác từ thời Pháp thuộc. Một góc mỏ than Hòn Gai thời Pháp thuộc Cá mè Tên chung của một số loài cá nước ngọt cùng họ với cá chép, có thân dẹp, đầu to, vẩy nhỏ, trắng. Có nhiều loài cá mè, nhưng cá mè trắng và mè hoa là phổ biến hơn cả. Nhân dân ta đánh bắt cá mè để lấy thịt, mỡ và mật cá, vừa để chế biến thức ăn vừa làm thuốc. Cá mè Cá chép Tên Hán Việt là lí ngư, một loại cá nước ngọt rất phổ biến ở nước ta. Ngoài giá trị thực phẩm, cá chép còn được nhắc đến trong sự tích "cá chép vượt vũ môn hóa rồng" của văn hóa dân gian, đồng thời tượng trưng cho sức khỏe, tài lộc, công danh. Ở một số địa phương miền Trung, cá chép còn gọi là cá gáy. Cá chép Cá rô Loại cá rất thường gặp trên các đồng ruộng ở nước ta. Nhân dân ta thường tát đồng để bắt cá rô. Cá rô đồng có thịt béo, thơm, dai, ngon, dù hơi nhiều xương, và được chế biến thành nhiều món ngon như kho, nấu canh, làm bún... Lưu ý Có một giống cá khác gọi là cá rô phi, thường được nuôi ở ao, nhưng khi nhắc đến cá rô thì người ta nghĩ ngay đến cá rô đồng. Cá rô đồng kho tộ Cá trê Tên một họ cá da trơn nước ngọt phổ biến ở nước ta. Cá trê có hai râu dài, sống trong bùn, rất phàm ăn. Nhân dân ta thường đánh bắt cá trê để làm các món kho, chiên hoặc gỏi. Cá trê Ba quân Người xưa chia quân đội thành ba cánh quân tả quân bên trái, trung quân chính giữa và hữu quân bên phải, hoặc thượng quân phía trên, trung quân, hạ quân phía dưới, hoặc tiền quân phía trước, trung quân, hậu quân phía sau. Ba quân vì vậy chỉ quân đội nói chung, và chốn ba quân chỉ nơi chiến trường. Quần thoa Quần và trâm cài đầu, các vật dụng của phụ nữ. "Quần thoa" hay "khách quần thoa" vì thế chỉ người phụ nữ nói chung. Tây Thi Một trong tứ đại mĩ nhân thời Xuân Thu Trung Hoa cổ đại. Tương truyền, nhan sắc nàng làm cá phải ngừng bơi mà lặn xuống đáy nước, gọi là "trầm ngư". Theo truyền thuyết, Tây Thi là người nước Việt, được dâng cho vua Ngô là Phù Sai. Phù Sai mê mẩn vẻ đẹp của Tây Thi, bỏ bê triều chính, cuối cùng mất nước vào tay vua Việt là Câu Tiễn. Tây Thi Việt Một nước chư hầu của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc, được biết đến với việc Việt vương Câu Tiễn nuôi chí phục quốc, đánh bại vua Ngô là Phù Sai. Đến thời Chiến Quốc, Việt bị Sở tiêu diệt. Văn Khương Công chúa nước Tề thời Xuân Thu, phu nhân của Lỗ Hoàn công, mẹ của Lỗ Trang công, nổi tiếng xinh đẹp. Bà loạn luân với người anh khác mẹ là Tề Tương công, dẫn đến việc Tề Tương công giết chết chồng bà là Lỗ Hoàn công, gây nên loạn lạc ở nước Lỗ. Tề Một nước thuộc thời kì Xuân Thu - Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc, tồn tại từ khoảng thế kỷ 11 đến năm 221 trước Công nguyên. Huế Một địa danh ở miền Trung, nay là thành phố thủ phủ của tỉnh Thừa Thiên-Huế. Là kinh đô của Việt Nam dưới triều đại phong kiến nhà Nguyễn 1802 - 1945, Huế còn được gọi là đất Thần Kinh ghép từ hai chữ kinh đô và thần bí hoặc cố đô. Huế là một vùng đất thơ mộng, được đưa vào rất nhiều thơ văn, ca dao dân ca và các loại hình văn học nghệ thuật khác, đồng thời cũng là mảnh đất giàu truyền thống văn hóa với nón Bài Thơ, nhã nhạc cung đình, ca Huế, các đền chùa, lăng tẩm, các món ẩm thực đặc sắc... Địa danh "Huế" được cho là bắt nguồn từ chữ "Hóa" trong Thuận Hóa, tên cũ của vùng đất bao gồm Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế. Cầu Tràng Tiền bắc ngang qua sông Hương, một biểu tượng của Huế Thành Nội Áo địa Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Áo địa, hãy đóng góp cho chúng tôi. Nón dấu Cũng gọi là nón sơn hoặc nón dầu sơn, loại nón của lính thời Lê - Nguyễn, gần giống như nón lá nhưng nhỏ hơn, thường đan bằng mây, có chóp bằng đồng. Nón dấu Đặng Được, để, nhằm từ cũ, phương ngữ. Tấn Tần Việc hôn nhân. Thời Xuân Thu bên Trung Quốc, nước Tần và nước Tấn nhiều đời gả con cho nhau. Tấn Hiến Công gả con gái là Bá Cơ cho Tần Mục Công. Tần Mục Công lại gả con gái là Hoài Doanh cho Tấn Văn Công. Việc hôn nhân vì vậy gọi là việc Tấn Tần. Trộm toan kén lứa chọn đôi, Tấn Tần có lẽ với người phồn hoa. Truyện Hoa Tiên Thuốc bắc Tên chung của các loại thuốc được sử dụng trong y học cổ truyền của Trung Quốc, phân biệt với thuốc nam là thuốc theo y học cổ truyền Việt Nam. Các vị trong thuốc bắc có nguồn gốc từ thực vật vỏ, rễ, lá cây..., động vật sừng, xương, da lông... và khoáng chất hoàng thổ, thạch tín ... được chia thành thang, luộc trong nước gọi là sắc thuốc trước khi uống. Một số vị thuốc bắc Đông sàng Cái giường ở phía Đông. Thời nhà Tấn ở Trung Quốc, quan thái úy Khích Giám muốn lấy chồng cho con gái mình, liền sai người qua nhà Vương Đạo có nhiều con cháu để kén rể. Các cậu con trai nghe tin, ra sức ganh đua nhau, chỉ có một người cứ bình thản nằm ngửa mà ăn bánh trên chiếc giường ở phía đông. Người ta trở về nói lại, ông khen "Ấy chính là rể tốt" và gả con cho. Người con trai ấy chính là danh nhân Vương Hi Chi, nhà thư pháp nổi danh bậc nhất Trung Quốc, được mệnh danh là Thư thánh. Chữ đông sàng vì vậy chỉ việc kén rể giỏi giang. Vương Hi Chi Rày Nay, bây giờ phương ngữ. Mành mành Đồ dùng được làm từ tre, gỗ hoặc nhựa, thường được treo ở cửa chính hoặc cửa sổ nhà ở để che bớt ánh sáng. Mành mành Về Chiêu Anh Quán ~ Việt Nam Cộng Hòa Vẫn Còn Đây Search 12 Thứ Tư Th9 2018 Posted by VIỆT NAM CỘNG HÒA Vẫn Còn Đây in Khác ≈ Bình luận về bài viết này CƯỜI TOE TOÉT VỚI BÀI HỌC SÁCH TIẾNG VIỆT LỚP 1 hồ ngọc đại .AI HÕNG CƯỜI LÀ ĐỨT DÂY CƯỜI lo mà đi khám bác sĩ đi v …..v…..v……v……… EM ƠI ĐỪNG CÓ BỒN CHỒN …. Điều hướng bài viết ← Previous post Next post → Trả lời Nhập bình luận ở đây... Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập Email bắt buộc Địa chỉ của bạn được giấu kín Tên bắt buộc Trang web Bạn đang bình luận bằng tài khoản Đăng xuất / Thay đổi Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất / Thay đổi Hủy bỏ Connecting to %s Nhắc email khi có bình luận mới. Nhắc email khi có bài viết mới.

em ơi đừng có bồn chồn